LÃI SUẤT DO CHẬM THANH TOÁN

PHÂN TÍCH VỀ LÃI SUẤT DO CHẬM THANH TOÁN

                                                                                     Phạm Minh Hoàng
                                                                      Thạc sĩ, Luật sư
                                                              Văn phòng Luật sư Trí & Cộng sự

I. Đối với các giao dịch dân sự được thực hiện trước ngày 01/01/2006 (ngày Bộ luật dân sự 2005 có hiệu lực) mà có tranh chấp xảy ra thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và các văn bản pháp luật hướng dẫn áp dụng Bộ luật dân sự năm 1995 để giải quyết

Theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự 1995, người có nghĩa vụ chậm trả tiền, thì người đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậmtrả tại thời điểm thanh toán.

Ngày 28/06/1997, Ngân hàng nhà nước ban hành Quyết định số 197/1997/QĐ-NHNN quy định lãi suất cho vay bằng tiền Việt Nam và đô la Mỹ của tổ chức tín dụng đối với tổ chức kinh tế và dân cư, theo đó quy định: Lãi suất nợ quá hạn bằng 150 % mức trần lãi suất cho vay cùng loại (Khoản 1.5). Mức trần lãi suất cho vay sẽ do Ngân hàng nhà nước quy định.

Tuy nhiên sau đó, ngày 30/5/2002, Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN. Theo quyết định này,Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng Đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Theo đó, Tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng Đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay là các pháp nhân và cá nhân Việt Nam, pháp nhân và cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín dụng được lựa chọn theo Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong từng thời kỳ để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường, phù hợp với quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; đồng thời chủ động áp dụng các biện pháp để kiểm soát biến động của lãi suất thị trường, đảm bảo được yêu cầu và mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.

Mức lãi suất cho vay áp dụng đối với các khoản nợ gốc quá hạn, thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

Theo khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do tổ chức tín dụng ấn định và thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng.

Tuy nhiên, Điều 473 Bộ luật dân sự 1995 quy định: Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do Ngân hàng nhà nước quy định đối với loại cho vay tương ứng. Ở đây, mức 50% được hiểu là mức vượt quá mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng nhà nước quy định, vì hiển nhiên sẽ là phi lý nếu xem ngưỡng 50% ấy chỉ là phân nửa (của lãi suất trần do NHNN quy định) bởi không lẽ pháp luật lại buộc các thoả thuận dân sự trong xã hội (bao gồm cả hoạt động cho vay của ngân hàng) chỉ được thoả thuận mức lãi suất vay tối đa bằng phân nửa mức lãi suất trần do NHNN quy định (= lãi suất trần x 50%), thực tiễn giao dịch dân sự và việc giải quyết các tranh chấp dân sự của Toà án cũng không bao giờ diễn dịch theo ý này.

Kể từ khi ban hành Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN và số 1627/2001/QĐ-NHNN, NHNN chỉ ban hành mức lãi suất cơ bản mà không ban hành các mức lãi suất vay khác. Như vậy có thể hiểu rằng, mức lãi suất nợ quá hạn tối đa sẽ bằng: 150% x 150% x lãi suất cơ bản.

Mặt khác, theo quy định của Luật thương mại 1998, áp dụng đối với các giao dịch về kinh doanh thương mại (cả hai bên tham gia giao dịch đều nhằm mục đích lợi nhuận):

Điều 233 quy định: “Trong trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán phí dịch vụ, các chi phí khác thì bên kia có quyền đòi tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Theo quy định này, luật cho phép các bên có thể thoả thuận về mức lãi suất đối với số tiền chậm trả. Nếu các bên không có thoả thuận, thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy định tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.

Tuy nhiên, theo phân tích ở trên, kể từ ngày ban hành Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN và số 1627/2001/QĐ-NHNN, Ngân hàng chỉ quy định mức lãi suất cơ bản mà không quy định mức lãi suất nợ quá hạn. Vì vậy, về nguyên tắc, chỉ có thể xác định được mức lãi suất nợ quá hạn tối đa sẽ bằng: 150% x 150% x lãi suất cơ bản, còn mức lãi suất nợ quá hạn cụ thể thì do các tổ chức tín dụng tự quyết định, miễn là không vượt quá mức tối đa. Trên thực tế, các tổ chức tín dụng thường áp dụng mức lãi suất nợ quá hạn gần với mức lãi suất nợ quá hạn tối đa, tức khoảng 75% - 80% mức lãi suất nợ quá hạn tối đa.

Tóm lại, Đối với giai đoạn này, chúng ta chỉ có thể xác định được mức lãi suất nợ quá hạn tối đa là: 150% x 150% x lãi suất cơ bản. Do đó, để xác định được mức lãi suất nợ quá hạn cụ thể để áp dụng khi tính lãi với khách hàng, ta phải tham khảo các mức lãi suất nợ quá hạn được áp dụng tại một số tổ chức tín dụng. Từ đó xác định được mức lãi suất nợ quá hạn trung bình làm cơ sở tính lãi suất do chậm thanh toán đối với khách hàng.

Trường hợp không xác định được mức lãi suất nợ quá hạn cụ thể áp dụng tại một số tổ chức tín dụng, ta có thể áp dụng mức lãi suất tương đối và gần với mức lãi suất nợ quá hạn tối đa.

II. Đối với các giao dịch dân sự xác lập sau ngày 01/01/2006 hoặc xác lập trước ngày 01/01/2006 và vẫn đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự thì áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự 2005

  1. Quan hệ dân sự có một bên hoặc các bên tham gia không nhằm mục đích lợi nhuận (VD: mục đích tiêu dùng,…) (không phải là quan hệ kinh doanh thương mại):

Áp dụng quy định của Bộ luật dân sự 2005:

1.     Nếu mua hàng, chậm thanh toán:
Lãi do chậm thanh toán = lãi suất cơ bản 

(Kh(Khoản 438.2 và 305.2 Bộ luật dân sự 2005)
2.     Vay:
a.      Không tính lãi: Lãi do chậm thanh toán = lãi suất cơ bản (Khoản 474.4 Bộ luật dân sư 2005)
b.     Có tính lãi: Lãi do chậm thanh toán = lãi suất nợ quá hạn (Khoản 474.5 Bộ luật dân sư 2005)
3.     Lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố (Khoản 476.1)

Quan hệ dân sự mà các bên tham gia giao dịch đều nhằm mục đích lợi nhuận (quan hệ kinh doanh thương mại)
Áp dụng quy định của Luật Thương mại 2005, có hiệu lực từ ngày 01/01/2006:

Điều 306 Luật thương mại quy định: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Do hiện nay, theo quy định tại Điều 1 Quyết định 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng Đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Ngân hàng chỉ ban hành lãi suất cơ bản để các tổ chức tín dụng làm cơ sở cho việc xác định lãi suất cho vay.

Như vậy, Luật thương mại 2005 cho phép các bên thoả thuận về mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ chậm thanh toán. Nếu các bên không có thoả thuận, thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.

Mặt khác theo điều 476 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”.

Bên cạnh đó, theo Quyết định số 197/1997/QĐ-NHNN quy định lãi suất cho vay bằng tiền Việt Nam và đô la Mỹ của tổ chức tín dụng đối với tổ chức kinh tế và dân cư, lãi suất nợ quá hạn bằng 150 % mức trần lãi suất cho vay cùng loại. Hiện nay, Quy định này tuy có phần không phù hợp do Quyết định 546/2002/QĐ-NHNN  cho phép thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận, nhưng hiện chưa có văn bản nào thay thế hoặc huỷ bỏ và trên thực tế hoạt động của các ngân hàng, mức lãi suất nợ quá hạn áp dụng cũng không vượt quá 150 % mức trần lãi suất cho vay.

Như vậy, vô hình chung, nếu các bên không có thoả thuận về lãi suất đối với khoản nợ hoặc thoả thuận với mức lãi suất cao hơn 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định tại thời điểm tính lãi suất thì mức lãi suất nợ quá hạn áp dụng đối với khoản nợ chậm thanh toán tối đa là 150% x 150% x lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định.

Trên thực tế, để tính được mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường, thông thường, chúng ta phải lấy mức lãi suất nợ quá hạn được công bố của ít nhất 03 ngân hàng đang hoạt động để tính ra mức lãi suất nợ quá hạn trung bình.

Trường hợp không xác định được mức lãi suất nợ quá hạn cụ thể áp dụng tại một số tổ chức tín dụng, ta có thể áp dụng mức lãi suất gần với mức lãi suất nợ quá hạn tối đa.

Lưu ý:
-          Áp dụng luật dân sự hay luật thương mại để tính tiền lãi?
-       Hoạt động kinh doanh thương mại cũng được xem là một hình thức hoạt động trong lĩnh vực dân sự và nó cũng bị điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, đối với hoạt động kinh doanh thương mại, nhà nước ban hành Luật Thương mại để điều chỉnh riêng cho hoạt động này. Do đó, Luật thương mại được xem là luật riêng (luật chuyên ngành) được ban hành để điều chỉnh các quan hệ kinh doanh thương mại. Luật dân sự là luật chung, chỉ được áp dụng khi luật chuyên ngành không có quy định điều chỉnh. Ở đây, do Điều 306 Luật Thương mại đã quy định về lãi do chậm thanh toán nên sẽ được ưu tiên áp dụng để tính lãi cho các quan hệ kinh doanh thương mại. Còn Bộ luật dân sự được áp dụng cho các giao dịch dân sự không mang tính thương mại.
-         Mức lãi suất nợ quá hạn không phải là mức lãi suất tối đa (150% x 150% x lãi suất cơ bản).
-         Do lãi suất nợ quá hạn gắn liền với lãi suất cơ bản. Mà lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước ban hành thay đổi theo từng thời điểm. Do đó, việc tính tiền lãi do chậm thanh toán cũng sẽ được tính theo từng mốc lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước ban hành trong thời gian tính lãi.
-         Lãi suất cho vay do các bên thoả thuận, do đó, mức lãi suất cho vay cụ thể của các tổ chức, các nhân sẽ không thống nhất. Vì vậy mức lãi suất nợ quá hạn cũng không thống nhất.
-         Trong Luật Thương mại, xét về mặt hình thức, không có khái niệm “tiền lãi phạt” mà chỉ có khái niệm “tiền lãi do chậm thanh toán” và khái niệm “phạt do vi pham hợp đồng”.
-         Cần phân biệt giữa phạt do vi phạm hợp đồng và tính tiền lãi do chậm thanh toán

Phạt vi phạm: Theo Điều 300 Luật Thương mại, phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận. Bên bị vi phạm chỉ có thể tính tiền phạt khi có thoả thuận trong hợp đồng (Điều 307 Luật Thương mại). Mức phạt do vi phạm hợp đồng tối đa là 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm (Điều 301 Luật thương mại).

Tiền lãi do chậm thanh toán: Theo điều 306 Luật Thương mại, trường  hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả . Việc tính tiền lãi do chậm thanh toán này không phụ thuộc vào việc các bên có thoả thuận việc tính tiền lãi hay không. Nếu các bên có thoả thuận, và mức lãi suất không vượt quá mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán thì sẽ áp dụng mức lãi suất thoả thuận. Nếu các bên không có thoả thuận thì áp dụng mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường.

Trên thực tế, trong các giao dịch, khách hàng thường không phân biệt được hai hình thức này, nên trong hợp đồng thường quy định: nếu chậm thanh toán thì chịu mức lãi phạt tương đương a,b,c %... Với quy định như vậy, rất khó có thể xác định rõ đây là tiền lãi do chậm thanh toán hay là tiền phạt do vi phạm hợp đồng. Toà án có thể xem đây là tiền lãi do chậm thanh toán và cũng có thể xem đây là tiền phạt do vi phạm hợp đồng. Do đó, khi gặp những trường hợp này, cần phải tư vấn cho khách hàng các khả năng có thể được toà án chấp nhận như trên.

Liên hệ Trilaw